Luật sư giỏi về tố tụng hình sự tại hồ chí minh
Luật sư giỏi về tố tụng hình sự tại hồ chí minh
Luật sư giỏi về tố tụng hình sự tại hồ chí minh
Hoạt động tranh tụng hình sự của Luật sư được quy định cơ bản trong các nguồn pháp luật về tố tụng hình sự. Đặc biệt, một số điểm mới đáng chú ý của BLTTHS 2015 so với hệ thống pháp luật tố tụng hình sự trước đây có thể nói là cơ sở pháp lý thuận lợi để nâng cao vai trò, vị thế của Luật sư trong hoạt động tranh tụng. Từ nhiệm vụ và mục tiêu hướng tới bảo vệ quyền con người, chính là việc bảo đảm quyền bào chữa, bảo vệ quyền được bào chữa, quyền được bảo vệ của người bị buộc tội và đương sự trong vụ án hình sự.
Tranh tụng được hiểu là toàn bộ quá trình hoạt động của Luật sư với tư cách là người bào chữa hoặc bảo vệ trong một vụ án kể từ khi được các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thụ lý vụ án, đăng ký tham gia đến khi Luật sư chấm dứt không tham gia bằng các lý do khác nhau, hoặc đến khi kết thúc vụ án bằng bản án có hiệu lực pháp luật.
Việc tham gia bảo vệ quyền, lợi ích cho thân chủ của luật sư trong các vụ án hình sự là một hoạt động khá đặc thù. Trong đó, luật sư có thể tham gia ngay từ giai đoạn giải quyết tin báo, tố giác tội phạm – giai đoạn trước khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Theo quy định tại Điều 83 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tại giai đoạn này luật sư tham gia với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Khi vụ việc chuyển sang một giai đoạn tố tụng khác thì kể từ khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can một chủ thể tội phạm thì luật sư sẽ thực hiện vai trò là người bào chữa cho người bị buộc tội hoặc bảo vệ cho các đương sự theo quy định.
Để thực hiện đúng, đầy đủ vai trò của mình trong vụ án hình sự, mà cụ thể hơn là phục vụ cho hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, luật sư cần có một số kỹ năng như sau:
Trước hết là kỹ năng thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Chứng cứ là cơ sở để luật sư xây dựng phương hướng bào chữa cho thân chủ hoặc bảo vệ cho khách hàng của mình. Bởi vậy, luật sư phải thu thập chứng cứ từ nhiều nguồn, để tìm ra những chứng cứ có lợi cho thân chủ/khách hàng của mình. Ngoài những chứng cứ do cơ quan, người tiến hành thu thập được trong quá trình điều tra, luật sư cần chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo luật định để có cái nhìn khách quan, toàn diện và đầy đủ nhất về vụ án.
Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành quy định luật sư có quyền thu thập, đưa ra, tài liệu, chứng cứ, yêu cầu; kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản (điểm h, i, k khoản 1 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự). Sau khi thu thập chứng cứ, luật sư phải kiểm tra và đánh giá những chứng cứ này, không phải chứng cứ nào cũng đưa vào trong bản luận cứ. Với tư cách là người bào chữa cho bị cáo/người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, luật sư phải bảo đảm quyền lợi tốt nhất cho họ. Vì vậy, những chứng cứ nào có lợi cho bị cáo như chứng cứ có ý nghĩa trong việc đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, chứng cứ để giảm nhẹ mức hình phạt hoặc gỡ tội cho bị cáo thì luật sư đưa vào bản luận cứ. Chứng cứ nào không có lợi thì bỏ qua vì có thể làm xấu đi tình trạng của thân chủ. Còn nếu luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, đương sự thì phải tìm những chứng cứ buộc tội bị cáo, chứng cứ về nghĩa vụ bồi thường thiệt hại…
Trong vụ án hình sự, kỹ năng của luật sư khi tham gia vào một số hoạt động điều tra và làm việc với người tiến hành tố tụng cũng vô cùng quan trọng. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã khẳng định rõ vai trò của luật sư trong hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động tranh tụng nói riêng. Điển hình là quy định luật sư có quyền trong việc tham gia tố tụng như: Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, được gặp bị can, bị cáo, thu thập và xuất trình tài liệu, đồ vật, nghiên cứu hồ sơ vụ án… Thực hiện quyền và trách nhiệm của mình, luật sư không chỉ là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ mà còn góp phần hạn chế những sai phạm của cơ quan điều tra, bảo đảm cho hoạt động điều tra tiến hành một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ.
Một kỹ năng quan trọng không kém để làm cơ sở cho hoạt động tranh tụng là đổi mới phương pháp nghiên cứu hồ sơ vụ án, đánh giá chứng cứ trong hồ sơ. Hồ sơ các vụ án hình sự thường khá phức tạp, gồm nhiều tài liệu, từ các quyết định của cơ quan điều tra, quyết định trưng cầu giám định, biên bản lấy lời khai đến bản kết luận điều tra và các chứng cứ khác có liên quan. Nếu luật sư nghiên cứu tất cả những thông tin thu thập được sẽ không có đủ thời gian để đánh giá chứng cứ, tìm những thông tin quan trọng có lợi cho thân chủ… Trên phương diện là người bào chữa/người bảo vệ quyền và lợi ích cho thân chủ, luật sư phải căn cứ vào mong muốn của thân chủ cũng như kết quả cần đạt được để xác định trọng tâm công việc và xác định những thông tin cần nghiên cứu, tìm hiểu. Hơn nữa, trong khi thực hiện quá trình này, luật sư có thể chủ động đưa ra các kiến nghị với cơ quan tố tụng khi cần thiết, hoặc khi phát hiện có sai phạm, có những tình tiết còn mâu thuẫn, chưa làm rõ, hoặc kiến nghị triệu tập người có liên quan để lấy lời khai… bảo đảm giải quyết vụ án một cách khách quan, công bằng.
Sau khi thực hiện xong các công việc nêu trên, trước khi diễn ra phiên tòa, luật sư sẽ chuẩn bị bản luận cứ bào chữa cho bị cáo/thân chủ của mình và các tài liệu có liên quan để viện dẫn tại phiên tòa. Quan trọng nhất là luật sư không nên lệ thuộc quá nhiều vào kết luận điều tra, cáo trạng của VKS mà cần có tư duy phản biện nhằm bảo vệ lợi ích tối đa cho thân chủ. Trong đó, những tài liệu về nhân thân, hoàn cảnh gia đình của bị cáo và các giấy tờ khác chứng minh bị cáo đủ điều kiện để áp dụng tình tiết giảm nhẹ là vô cùng quan trọng. Ví dụ như giấy tờ xác nhận bị cáo thuộc diện chính sách ưu tiên, gia đình có công với cách mạng; giấy tờ xác nhận tình trạng sức khỏe, hoàn cảnh gia đình cũng như các giấy tờ xác nhận thành tích trong công tác, học tập, sản xuất của bị cáo. Đây là những chứng cứ quan trọng để HĐXX xem xét và quyết định khung hình phạt đối với bị cáo trong vụ án hình sự.
Phiên tòa xét xử vụ án hình sự có thành công hay không, đều nằm ở kỹ năng tranh tụng của luật sư trong giai đoạn này. Các công việc đã thực hiện trước đó như: nghiên cứu tài liệu, hồ sơ, tìm tòi những thông tin, tình tiết có lợi cho thân chủ nhằm bảo vệ quyền lợi tốt nhất cho họ đều sẽ được luật sư thể hiện tại phiên tòa và kết quả của việc bào chữa cho bị cáo sẽ được ghi nhận tại bản án của Toà án có thẩm quyền.
Đương nhiên luật sư hay bất cứ ai khi tham gia phiên toà xét xử cũng cần tuân thủ quy trình, thủ tục và phiên toà nào cũng sẽ diễn ra theo đúng trình tự quy định, nhưng luật sư cần trau dồi một số kỹ năng cơ bản, đặc biệt là những kỹ năng “mềm” khi tham gia tranh tụng tại các phiên tòa. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, luật sư cần loại bỏ những suy nghĩ về vấn đề coi vụ án hình sự là “án tại hồ sơ”, bởi lẽ việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ trong hồ sơ và kỹ năng tranh luận tại phiên tòa có mối quan hệ rất mật thiết. Luật sư phải là người có tư duy phản biện, không quá lệ thuộc và đi theo nội dung trong hồ sơ vụ án mà từ việc nghiên cứu, đánh giá hồ sơ, tài liệu, chứng cứ, tìm ra những thông tin quan trọng, mấu chốt để giải quyết vấn đề. Mặt khác, không phải tất cả các chứng cứ trong hồ sơ đã chính xác, khách quan mà nhiệm vụ của luật sư là cần tìm ra những điểm còn mâu thuẫn, còn chưa rõ ràng trong vụ án; hoặc những sai phạm của các cơ quan tố tụng hay các tình tiết giảm nhẹ có ý nghĩa quan trọng trong việc giảm khung hình phạt cho thân chủ của mình,
Thứ hai, ngoài việc chuẩn bị luận cứ bào chữa và kế hoạch xét hỏi, luật sư cần phải dự đoán các vấn đề cần tranh tụng công khai tại phiên tòa trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ kết hợp với quan điểm bào chữa/bảo vệ của luật sư. Mặt khác, bài bào chữa/luận cứ của luật sư cũng nên để dưới dạng “mở”, có thể thay đổi linh hoạt để phù hợp với diễn biến phiên tòa chứ không nên quá cứng nhắc, theo khuôn mẫu đã chuẩn bị sẵn. Song song với việc đó, luật cũng cần dành thời gian để luyện tập, nâng cao kỹ năng nói, khả năng trình bày, tốc độ giọng nói, phong thái đi lại,… khi tham gia tố tụng tại tòa.
Thứ ba, trước khi tham gia phiên toà luật sư nào cũng sẽ đều chuẩn bị những bản luận cứ/bài bào chữa hoàn chỉnh và nộp cho HĐXX khi toà án mở phiên toà xét xử. Vì thế, khi trình bày luận cứ bào chữa tại toà, luật sư nên nói những nội dung cần thiết, ngắn gọn, mạch lạc nhưng vẫn đầy đủ và bảo đảm tính thuyết phục, dựa trên quy định của pháp luật, chứng cứ và các tình tiết trong hồ sơ vụ án có lợi cho thân chủ. Đặc biệt, cần tránh việc đọc nguyên văn những nội dung trình bày trong luận cứ, hoặc trình bày quá dài dòng, lan man, gây mất thời gian và ảnh hưởng đến phần trình bày của các luật sư khác. Bởi nếu không tuân thủ quy định của phiên toà và sự điều hành của Thẩm phán chủ toạ phiên toà, những ý kiến của luật sư sẽ không được ghi nhận và điều đó lại trở thành một điều bất lợi cho bị cáo.
Thứ nhất, Trong quá trình thực hiện thu thập chứng cứ, Luật sư cần chú ý đến việc thu thập các tài liệu về nhân thân của bị can, các tài liệu phản ánh thành tích, công trạng của bị can và nhân thân của bị can như: Giấy chứng nhận người cao tuổi, nghề nghiệp, các bằng khen, giấy khen, các tài liệu xác nhận là con em gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng… Tuy nhiên, Luật sư cần chọn lọc những tài liệu có ý nghĩa bởi không phải mọi tài liệu đều có giá trị làm chứng cứ trước toà.
Ví dụ, Luật sư tham gia bào chữa cho bị cáo thì cần phải căn cứ vào những quy định giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để có thể tìm ra những chứng cứ bảo vệ lợi ích của bị cáo hay ít nhiều có ý nghĩa trong việc phản ánh nhân thân, hoàn cảnh phạm tội, khả năng giáo dục, cải tạo người phạm tội thì Luật sư cũng không nên bỏ qua mà nên khuyến khích gia đình thân chủ thu thập.
Thứ hai, nếu gặp những khó khăn, cản trở nhất định, người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản. Cùng với việc khiếu nại, giải quyết khiếu nại, thì đây là biện pháp rất quan trọng nhằm bảo đảm quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa, là cơ sở cho việc nâng cao vị thế của người bào chữa trong Tố tụng Hình sự.
Thứ ba, hiện nay, pháp luật Tố tụng Hình sự không quy định giám định ngoài tố tụng tuy nhiên, các tài liệu giám định ngoài tố tụng cũng có ý nghĩa nhất định trong hoạt động chứng minh, tạo cơ sở cho các đề xuất của luật sự về sự cần thiết trưng cầu giám định, giám định lại, giám định bổ sung hoặc tạo sức ép lên các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ. Vì vậy, Luật sư cần tư vấn cho thân chủ về vai trò của các tài liệu này và vận động thân chủ thu thập hoặc giao nộp các tài liệu này.
Thứ tư, ngay sau khi thu thập được những tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, Luật sư cần cung cấp ngay cho cơ quan điều tra. Bởi những chứng cứ mà Luật sư cung cấp cho cơ quan điều tra có thể có ý nghĩa làm thay đổi toàn bộ tình tiết vụ án (chứng minh người bị tạm giữ, bị can vô tội, tìm ra được hung thủ, tìm ra được bằng chứng cho một tội danh khác,...) hoặc là căn cứ để cơ quan điều tra có thể đưa ra những quyết định có lợi cho thân chủ của mình như quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn từ tạm giam sang các biện pháp ngăn chặn khác, quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án….
Trân trọng.
LS TRẦN MINH HÙNG
